KỸ THUẬT SƠ CẤP CỨU VẾT THƯƠNG
Hai điều ghi nhớ:
1. Tất cả vết thương đều nhiễm trùng: Vi trùng xâm nhập vào vết thương, có thể gây ra những hậu quả tai hại. Vì vậy tất cả những vết thương đều phải được săn sóc dù chỉ là một vết thương nhỏ.
2. Vi trùng sinh sản rất nhanh: Vì thế các vết thương cần phải được săn sóc ngay càng sớm càng tốt.
Như vậy, sự săn sóc đầu tiên của người cứu thương có tầm mức quan trọng cho việc bình phục vết thương sau này.
Sự vô trùng: là tình trạng của một vật mà trên đó không có vi trùng. Thí dụ: dụng cụ y khoa đã được khử trùng bằng lò hấp. Người cứu thương khó thực hiện việc băng bó trong điều kiện hoàn toàn vô trùng. Tuy nhiên, càng sạch chừng nào càng tốt chừng nấy.
Sự khử trùng là các phương pháp giết vi trùng. Vi trùng xâm nhập vào vết thương, thông thường bị tiêu diệt bằng các hóa chất gọi là chất sát trùng. Công hiệu của chất này hoàn hảo khi nào vết thương đã được rửa sạch cẩn thận.
Hành động của người cứu thương sẽ tùy thuộc vào vết thương nặng hay nhẹ. Vết thương nhẹ là những vết thương trầy trụa, hay xây xát ngoài da. Ngoài ra các vết thương khác được xem là nặng.
Cách săn sóc một vết thương:
· Chuẩn bị vật dụng.
· Rửa sạch hai tay.
· Khử trùng dụng cụ.
· Săn sóc vết thương.
· Phòng ngừa phong đòn gánh.
· Săn sóc vết thương do phỏng
Người cứu thương phải thành thạo cách săn sóc một vết thương nhẹ, vì họ thường gặp nhất trong các tai nạn thường ngày.
CHUẨN BỊ VẬT DỤNG
1. 1 tấm vải dầy (cạnh 50x50cm) để trải ra khi làm việc cho sạch sẽ.
2. Gạc 5x10cm đựng trong hộp hay trong bao kín đã khử trùng.
3. Bông gòn thấm nước cắt thành từng ô để sẵn trong hộp kim khí đã khử trùng.
4. Bông gòn không thấm nước đã khử trùng và còn nguyên trong bao, khi cần dùng sẽ cắt theo ý muốn.
5. Một hộp kim khí đựng dụng cụ: 1 kéo đầu tròn, 2 kẹp.
6. Thuốc sát trùng để rửa vết thương:
7. Xà phòng nước.
8. Dung dịch Dakin hay nước ôxy già, hai loại này rất dễ bay hơi.
9. Thuốc đỏ.
10. Cồn 900 (chỉ dùng để khử trùng dụng cụ)
11. Băng keo dài bề ngang 2cm, hay băng cá nhân loại ở thân băng có sẵn thuốc sát trùng.
12. Vài cuộn băng: chiều ngang 5,7 hay 10cm.
13. Kim băng.
RỬA SẠCH HAI TAY
Cắt ngắn móng tay. Dùng bàn chải và xà phòng chà xát từ bàn tay đến khủy tay trong 10 phút rồi rửa sạch với nước và không được lau tay. Xoa hai tay với cồn 900 và để khô.
KHỬ TRÙNG DỤNG CỤ
Chỉ có 2 cách khử trùng tuyệt đối dụng cụ: đó là chưng và hấp khô dùng trong phẩu thuật. Tuy cách chỉ dưới đây không khử trùng tuyệt đối, nhưng cũng đủ dùng trong lúc cấp cứu: nấu sôi, đốt nóng, hay nhúng vào cồn.
1. Đun sôi: phải đun sôi khoảng 20 phút.
2. Đốt nóng: để dụng cụ vào trong một cái mâm kim loại (hay nắp hộp) với một ít cồn 900 rồi châm lửa. Chờ cho nguội lại rồi mới xử dụng.
3. Nhúng dụng cụ và ngâm thường xuyên trong cồn 900.
SĂN SÓC VẾT THƯƠNG
1. Rửa vết thương từ trong ra ngoài, và chung quanh vết thương bằng thuốc sát trùng.
2. Cạo, cắt tóc, hay lông cho thật sạch.
3. Lấy ngoại vật thấy rõ ra.
4. Cắt bỏ da lòng thòng bằng kéo.
5. Nếu vết thương chảy máu, ta đắp gạc có tẩm ôxy già.
6. Khi vết thương đã sạch và khô, ta bôi thuốc sát trùng. Tránh dùng hỗn hợp nhiều loại thuốc, có thể gây phản ứng, nguy hiểm.
7. Nếu có thể được, nên để trần vết thương. Những vết thương xây xát chút ít không nên băng lại. Ta chỉ băng vết thương bị chảy máu hay rỉ nước.
8. Băng vết thương bằng cách đắp gạc rồi dùng băng keo dán lại. Nếu vết thương chảy máu hay cần che chở đầy đủ, ta đắp thêm một lớp bông gòn thấm nước rồi một lớp bông không thấm nước sau đó băng lại.
9. Thay băng: Cách 3 hay 4 ngày ta thay băng một lần. Nếu vết thương chảy máu hay làm mủ, mỗi ngày ta thay băng 1 hay 2 lần. Lúc mở băng nên cẩn thận: nên thấm ôxy già hay Dakin trước rồi mới gỡ miếng gạc ra khỏi vết thương.
10. Phải xem chừng vết thương: nếu vài hôm sau có dấu hiệu làm độc (đỏ, sưng, nhức, nóng) ta phải mời Y sĩ đến.
Vết thương nặng là những vết thương:
· Rộng (cần khâu lại).
· Sâu (xuyên qua da thịt)..
· Dính ngoại vật (đất, cát, mảnh kim loại…).
· Bầm dập (mô bị dập nát là chỗ cho vi trùng sinh sống).
· Phức tạp (gãy xương, xuất huyết).
· Làm độc.
· Ở nơi nguy hiểm (mặt, ngón tay, xoang).
Cấp cứu khi đứng trước một vết thương nặng: Người cứu thương không được sờ mó vào vết thương nặng. Hành động của họ là tóm tắt trong ba công việc: Bao bọc, làm phiếu, tải thương. Chỉ có y sĩ mới có thẩm quyền săn sóc vết thương nặng.
1. Bao bọc vết thương bằng vải thưa vô trùng, nếu có, hay vải sạch - Thực dụng nhất là băng cá nhân, băng này được làm sẵn để cấp cứu, (ngoài ra người cứu thương cần lưu ý để ngăn chận xuất huyết động mạch trầm trọng hay bó im xương gãy)
2. Cài 1 tấm phiếu vào áo nạn nhân trong đó ghi tên họ nạn nhân, tính chất, giờ và độ khẩn của vết thương.
3. Di chuyển ngay nạn nhân đến bệnh viện gần nhất, không được chần chờ, vì họ có thể chết vì kích xúc (chock) hay nhiễm trùng.
Vài trường hợp đặc biệt:
Người cứu thương phải biết hành động khi gặp trường hợp vết thương ở ngực hay ở bụng.
I. Vết thương ngực:
Nạn nhân bị vết thương ở trước ngực hay lưng có thể chết vì ngưng thở nếu người ta để đầu thấp. Sau khi băng kín vết thương, nạn nhân được tải thương theo tư thế nửa nằm, nửa ngồi hay nằm nghiêng về phía vết thương, đầu cao (xem phần thế nằm của nạn nhân)..
Nếu vết thương thủng phổi (không khí ở phổi thoát ra bằng vết thương), ta phải bịt chỗ thủng ngay, bằng cách dùng nhiều miếng gạc (compresse) phủ vải hay nylon ở ngoài rồi dùng băng keo hay băng 3 đuôi giữ chặt. Nếu không có vật dụng ta có thể dùng khăn tay hay bàn tay giữ chặt lại.
II. Vết thương ở bụng:
Nếu lòi ruột ra ngoài, không nên tìm cách nhét vào. Bao bọc bằng vải sạch (không nên dùng compresse). Lúc tải thương để đầu nạn nhân thấp, chân co lên.
Nếu dao vật nhọn, còn nằm tại chỗ, ta nên để nguyên, không được tìm cách lấy ra.
NÊN NHỚ Vết thương ở ngực và bụng thường hay gây ra nội xuất huyết
sưu tầm